Lịch sử Thư_viện_chuẩn_C

Trước khi được tiêu chuẩn hoá, C đã không cung cấp các hàm nội tại chẳng hạn là các phép toán I/O (không giống với các ngôn ngữ truyền thống như Pascal và Fortran). Theo thời gian, người trong cộng đồng của C đã chia sẻ nhau các ý tưởng và xây dựng nên cái mà ngày nay ta gọi là thư viện chuẩn C để cung ứng các chức năng. Nhiều ý kiến trong đó, đã được dùng vào việc định nghĩa của ngôn ngữ lập trình tiêu chuẩn hóa C.

Unix và C đều đã được tạo ra ở Bell Labs vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970. Trong suốt những năm của thập niên 1970, C trở nên phổ biến. Nhiều đại học và tổ chức bắt đầu tạo ra các ngôn ngữ C riêng cho các đề án của họ. Đến đầu thập niên 1980, vấn đề tương thích giữa những sự kiến tạo về C đã trở nên nghiêm túc. Năm 1983, ANSI thành lập một hội đồng để hoàn tất đặc tả tiêu chuẩn cho C gọi là "ANSI C". Công việc này dẫn tới sự hình thành của cái gọi là chuẩn "C89" trong năm 1989. Một bộ phận của kết quả chuẩn này là một tập hợp của các thư viện phần mềm gọi là thư viện chuẩn ANSI C đã ra đời.

Phiên bản viết lại sau này của chuẩn C đã thêm vào nhiều tập tin tiêu đề cần thiết cho thư viện. Hỗ trợ cho nhiều sự mở rộng khác nhau giữa các sư thiết lập (của C).

Các tiêu đề <iso646.h>, <wchar.h>, và <wctype.h> đã được thêm vào với Tu chính chuẩn số 1 (Normative Amendment) đưược viết tắt là NA1, và được chuẩn C chấp thuận vào năm 1995.

Các tiêu đề <complex.h>, <fenv.h>, <inttypes.h>, <stdbool.h>, <stdint.h>, và <tgmath.h> đã được thêm vào một phiên bản mới của chuẩn C là C99, phát hành năm 1999.